PHẦN I – NGÔN NGỮ, TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt, gồm những âm, từ và quy tắc kết hợp các từ mà những người trong cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để thông tin và giao tiếp với nhau. Ngôn ngữ cũng dùng để tư duy và diễn tả kết quả tư duy. Nghĩ gì thì nói ra được – ý tưởng tư duy không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ phát triển thì tư duy cũng phát triển và ngược lại.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của loài người. Nhờ ngôn ngữ mà loài người có thể giữ gìn và truyền đạt thành tựu của nền văn minh.
Ở bậc học phổ thông cơ sở, chúng ta giới hạn xem xét ngôn ngữ theo nghĩa hẹp, tức ngôn ngữ tự nhiên.
Ngôn ngữ tự nhiên (sau đây gọi tắt là ngôn ngữ) là “tiếng nói con người dùng làm phương tiện giao tiếp” (Từ điển Tiếng Việt), cũng là đặc trưng quan trọng của một dân tộc. Nói chung mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng, nhưng cũng có các dân tộc, quốc gia khác nhau dùng cùng một ngôn ngữ. Ví dụ nhiều quốc gia Trung Đông và Bắc Phi dùng chung ngôn ngữ A Rập; còn tiếng Anh được dùng tại nhiều nước như Anh, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand, v.v…
Thoạt tiên ngôn ngữ tự nhiên của loài người chỉ là ngôn ngữ âm thanh, tức tiếng nói. Nó ra đời một cách tự nhiên trong đời sống cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu thông tin giữa người với người khi hợp tác để lao động kiếm sống và để chiến đấu bảo vệ bản thân. Hình thức thông tin bằng ngôn ngữ âm thanh có mặt hạn chế về không gian (chỉ nghe được khi ở gần) và thời gian (nói xong thì lời nói không còn tồn tại nữa, không nghe lại được nữa).
Để vượt qua sự hạn chế đó, loài người sáng tạo ra hình thức thông tin bằng chữ viết, tức hình thức nhìn thấy được của ngôn ngữ, gọi là ngôn ngữ thị giác. Chữ viết chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển tới giai đoạn xã hội văn minh – tức xã hội có ghi chép lịch sử, nhờ thế chúng ta mới biết về xã hội ấy, – còn xã hội trước đó gọi là xã hội tiền sử. Chữ viết là một sáng tạo vĩ đại của nhân loại. Nhờ có chữ viết mà thông tin truyền được xa và lâu, không còn bị hạn chế về khoảng cách và thời gian (truyền từ hôm trước sang hôm sau, đời này qua đời khác…).
Loài người hiện đại (Homo Sapiens Sapiens) ra đời khoảng 100.000 năm trước công nguyên (tr. CN). Tiếng nói ra đời không lâu sau đó, tới nay đã có lịch sử hàng chục nghìn năm, nhưng chữ viết đầu tiên chỉ mới xuất hiện vào khoảng năm 3500 tr. CN tại vùng Sumer (Iraq hiện nay), nơi hình thành nền văn minh đầu tiên trên Trái Đất.
Các loại chữ viết đầu tiên loài người làm ra đều chỉ ghi ý nghĩa của tiếng nói, tức loại chữ biểu ý (ideograph). Chữ biểu ý đầu tiên là loại chữ tượng hình (pictograph, hieroglyphic), tức dùng hình vẽ để tạo ra chữ. Chữ Ai Cập cổ (xuất hiện năm 3200 tr. CN) và chữ Hán cổ (1700 tr. CN) đều là chữ tượng hình.
Ở trong phạm vi nước Ai Cập thì không nói làm gì, nhưng thế giới được biết đến chữ tượng hình Cổ Ai Cập là nhờ chiến dịch đánh sang Ai Cập của Hoàng đế Napoléon nước Pháp.
Trong chiến dịch Ai Cập, vào năm 1799, quân lính của Napoléon đã tìm thấy ở làng Rosetta một phiến đá (độ dài ba chiều là 114,4 × 72,3 × 27,93 cm). Đầu tiên, người ta cũng chỉ nhặt nó vì tò mò và vì thấy nó lạ. Nhưng vào năm 1822, tại Paris, học giả người Pháp Jean–François Champollion đã tìm cách đọc những điều ghi trên tảng đá Rosetta đó. Ấy là một chỉ thị của nhà vua ghi bằng ba thứ chữ: thứ chữ thánh thư (chữ dùng cho các thày tu, thày cúng), kiểu chữ viết rất khó, thứ chữ cho dân cư (được khắc thêm vào) và cả thứ chữ Hy Lạp cổ nữa.
Tại Trung Hoa cổ, người ta cũng tìm thấy những chữ cổ khắc trên mai rùa hoặc sau này còn có chữ cổ khắc trên kim loại nữa. Người Trung Hoa đã khôn ngoan dùng chữ viết để làm một trong những công cụ thống nhất đất nước – một “thế giới” mênh mông mà dân vùng này nói dân vùng kề ngay bên cạnh cũng không hiểu!
Hầu hết các loại chữ viết xuất hiện muộn hơn đều dùng các mẫu tự (“chữ cái”) để ghi âm tiếng nói, tức loại chữ ghi âm. Khi đó chỉ cần biết dùng vài chục chữ cái ghép với nhau là có thể tự đọc được gần như bất cứ từ nào (tuy chưa chắc đã hiểu hết nghĩa từ đó). Vì thế chữ ghi âm rất dễ nhớ, dễ học. Chữ ghi âm đầu tiên có các chữ cái kiểu abc do người Phoenicia sáng tạo vào khoảng năm 1400 tr. CN. Chữ quốc ngữ Việt Nam thuộc loại chữ ghi âm này.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa chữ viết là “Hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói”, tức là dùng các ký hiệu nhìn thấy được (ký hiệu thị giác) để cố định ngôn ngữ âm thanh, đại diện cho lời nói. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng định nghĩa “chữ viết” như thế mới chỉ thích hợp với chữ ghi âm mà thôi, còn chữ tượng hình thì không ghi tiếng nói mà “ghi sự vật”, vì nó chỉ là hình vẽ rút gọn, với nhiều cách đọc khác nhau tùy người đọc.

PHẦN II – SƠ LƯỢC VỀ CHỮ HÁN

Chữ Hán có vai trò quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam, bởi vậy chúng ta cần tìm hiểu qua về loại chữ này.

Chữ Hán thuộc loại chữ viết ra đời sớm nhất, khoảng 3600 năm trước đây, tính từ khi xuất hiện chữ khắc trên mai rùa. Đây là loại chữ biểu ý còn tồn tại tới nay chưa bị đào thải. 

Chữ Hán nguyên thủy khắc trên mai rùa là chữ tượng hình 象形, tức chữ vẽ hình dạng của vật thể.

Trong thực tế rất khó tạo được chữ tượng hình, bởi lẽ các vật có thể vẽ đơn giản thành chữ thì số lượng rất ít, mà các sự vật không có hình thù hoặc các khái niệm trừu tượng thì nhiều hơn và ngày một nhiều thêm.

Ngoài ra, những vật hình thù giống nhau (ví dụ ngựa và lừa) thì không thể dùng chữ tượng hình để phân biệt chúng. 

Vì thế ngoài cách thức tượng hình ra, người Hán phải tạo chữ theo năm cách nữa, là chỉ sự 指事, hội ý 會意, hình thanh 形聲, giả tá 假借, chuyển chú 轉 注. Sáu cách cấu tạo chữ Hán này (kể cả tượng hình) được gọi là Lục thư; trong đó giả táchuyển chú không tạo ra chữ mới mà chỉ là cách dùng chữ. Qua mấy nghìn năm biến đổi, chữ Hán hiện nay không còn là chữ tượng hình, mà chỉ là một loại chữ biểu ý; chữ tượng hình chỉ chiếm một vài phần trăm kho chữ Hán.

Những chữ Hán được cấu tạo bằng cách tượng hình, chỉ sự và hội ý thì không có thành phần biểu âm, nghĩa là nhìn chữ mà không biết cách đọc âm chữ đó. Chữ cấu tạo bằng cách hình thanh thì có thành phần biểu âm, tức nhìn mặt chữ có thể suy ra âm đọc chữ đó.

Bạn cần biết rằng, hơn 80% chữ Hán được cấu tạo bằng cách hình thanh. Và cũng cần thấy phương pháp hình thanh là cách cấu tạo chữ vừa thông minh, vừa rắc rối, lại vừa gây thú vị nữa. Ví dụ: chữ mã 馬 (con ngựa) là chữ tượng hình; khi ghép nó với chữ tượng hình nữ 女 (phụ nữ) sẽ được chữ 媽, đọc là “ma”, nghĩa là “mẹ”. Khi ghép chữ “mã” với chữ tượng hình thạch 石 (đá), sẽ được chữ 碼, đọc là “mả”, nghĩa là “mã” (hiệu). Chữ “mã” 馬 là thành phần biểu âm của hai chữ mới 媽 và 碼.

PHẦN III – CHỮ HÁN ĐỌC THEO ÂM TIẾNG VIỆT

Các nước thuộc Vành đai Hán ngữ như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa Trung Quốc. Ba nước này thời xưa không có chữ viết nên phải mượn chữ Hán để dùng. Riêng nước ta còn bị phong kiến Trung Quốc đô hộ lâu tới hơn 1000 năm (thời kỳ Bắc thuộc), chính quyền người Hán cưỡng bức dân ta phải dùng chữ Hán trong mọi công việc hành chính và xã hội (như giáo dục, tôn giáo…); việc học tập, thi cử, mọi loại công văn, chứng chỉ, giấy tờ, thư tín, văn thơ… đều phải dùng chữ Hán. Cần nhấn mạnh, đó là loại chữ Hán cổ, rất khó học (không như chữ Hán hiện đại đã đơn giản hóa).

Vì mỗi chữ đều có âm đọc riêng nên khi học để có thể viết được, ta phải nhớ “âm đọc” của chữ. Bản thân các chữ Hán lại có nhiều nét, khó nhớ, dễ viết sai, viết nhầm. Lại thêm chuyện mỗi chữ có thể có nhiều âm đọc (đồng tự dị âm), bên cạnh việc một âm lại có thể có nhiều chữ (đồng âm dị nghĩa). Nói chữ Hán khó học là vì thế. Nhưng cha ông ta đã để lại di sản âm Hán–Việt– viết chữ Hán nhưng đọc chữ theo âm Hán–Việt – vẫn còn bảo tồn cho tới tận ngày nay. Chữ Hán đọc theo âm Hán–Việt ở nước ta còn được gọi là chữ nho vì chữ đó cũng chuyên chở nghĩa lý của đạo Nho (hệ thống triết học của Khổng Tử).

Mỗi chữ Hán được đọc bằng một âm tiếng Việt xác định, tức được đặt một cái tên xác định – gọi là từ Hán–Việt, ngày nay ta dễ dàng viết ra nó bằng chữ quốc ngữ, nhưng ngày xưa nếu không học viết bằng chữ nho thì chỉ có thể truyền khẩu. Như vậy mỗi chữ Hán có một từ Hán–Việt tương ứng, hình thành bộ từ Hán–Việt tương ứng với bộ chữ Hán.

Dùng từ Hán–Việt để nhận dạng chữ Hán đã tạo thuận tiện cho những người Việt chỉ học chữ Hán mà không học tiếng Hán. Như chữ 學, người Trung Quốc đọc “xuế”, ta đọc học, nghĩa của chữ hoàn toàn như nhau. Học là từ Hán–Việt của chữ 學. Bằng cách sáng tạo đó, tổ tiên ta có thể học và dùng được chữ Hán, coi như chữ viết của dân tộc mình. 

Đây là cách xử lý rất độc đáo, rất thông minh của người Việt đối với chữ Hán, một loại chữ biểu ý (nhưng không thể làm như vậy với chữ biểu âm). Ví dụ chữ 人民, người Anh biết Hán ngữ sẽ đọc là rấn mín, nhưng với người Anh không biết Hán ngữ khi nghe âm đọc ấy sẽ chẳng hiểu gì. Người Việt biết Hán ngữ sẽ đọc人民 là nhân dân, như vậy ngay cả người Việt không biết tiếng Hán nghe âm đọc ấy sẽ hiểu ngay ý nghĩa của từ này.

Một ví dụ nữa Tam tự kinh 三字經 (gồm những câu ba chữ, xếp sắp có vần điệu dễ nhớ) được người Hán biên soạn từ thế kỷ 13 dùng để dạy trẻ vỡ lòng các hiểu biết về luân lý đạo đức. Khi phiên âm ra từ Hán–Việt đọc lên rất có vần điệu nên dễ nhớ, dễ truyền khẩu. Như Nhân chi sơ, tính bản thiện nghĩa là thuở ban đầu, bản tính của con người là thiện, hoặc Nhân bất học, bất tri lý nghĩa là người không học thì không biết đạo lý.

Hoặc ví dụ chữ 生 (nghĩa là sinh sống, sinh đẻ, sinh hoạt, chưa chín, lạ…) được người Việt đọc là chữ “sinh”, âm đọc sinh khác với âm đọc sâng của người Hán, nhưng ý nghĩa và cách dùng từ vẫn cơ bản như nhau. Chữ sinh này cấu tạo nên các từ sinh hoạt, sinh sản, học sinh, v.v… được hiểu theo cả nghĩa Hán hoặc Việt.

Dĩ nhiên, trong chuyện trò hàng ngày, ta nên tránh việc lạm dụng từ Hán–Việt. Dân gian chê cười người hễ đáng nói chết thì lại nói tử vong, ăn uống thì lại nói ẩm thực, coi đó là những người sính nói chữ.

Đương nhiên, việc sáng tạo bộ từ Hán–Việt để đọc chữ Hán là một công việc diễn ra trong thời gian dài, do tầng lớp nhà nho nước ta thời xưa thực hiện (không loại trừ sự đóng góp của những thày giáo người Trung Hoa).

Đây là điều kiện quan trọng nhất để xã hội nước ta tiến lên thành một xã hội văn minh, có sử sách ghi chép. Tầng lớp trí thức người Việt sau khi nắm được chữ Hán đã tiếp thu khá trọn vẹn nền văn minh Trung Hoa và từ đó tiếp tục phát triển nền văn minh Việt.

Thời đó, văn minh Trung Hoa là nền văn minh lớn nhất, phát triển nhất châu Á. Tất cả các nước ở gần đều muốn tiếp thu nền văn minh đó. Rõ ràng, một khi đã lấy chữ Hán làm chữ viết của nước mình thì người Việt Nam có thể dễ dàng đọc hiểu được mọi kinh điển của Trung Hoa cùng nền văn học chữ Hán. Nho giáo nhanh chóng trở thành tư tưởng chính thống của các vương triều Việt Nam. Toàn bộ kinh Phật ta dùng đều là kinh chữ Hán do người Hán dịch từ chữ Phạn. Nếu không dùng chữ Hán thì ta sao có thể có kinh Phật và qua đó phát triển đạo Phật. Ngay câu Nam mô A di đà Phật mà tín đồ đạo Phật nước ta tụng niệm cũng là chữ Hán–Việt. Sau khi dùng chữ Hán, nước ta mới có nền văn học và sử học được ghi chép và để lại cho đời sau. Cũng từ đó, bộ máy quản trị chính quyền và xã hội nước ta được tổ chức theo mô hình Trung Quốc. Toàn bộ các văn bản giao dịch hành chính thời xưa đều dùng chữ nho, như các bản chiếu thư, sắc lệnh, sắc phong… của vua, các bản tấu trình, thông cáo… của quan lại các cấp.

Từ khi có chữ viết, nước ta bắt đầu xây dựng và phát triển nền giáo dục. Tương truyền Sĩ Nhiếp 士燮, viên Thái thú cai trị quận Giao Chỉ (tức nước Việt Nam cổ đại, 187–226), là người đầu tiên mở trường dạy chữ Hán cho người Việt, vì vậy các nhà nho nước ta gọi ông là Sĩ Vương. Trước thế kỷ 20, toàn bộ hệ thống dạy học ở các địa phương, hệ thống thi cử do các vương triều thiết lập đều dùng chữ nho. Nhờ thế ngành Hán học ở nước ta phát triển ở mức cao. Sứ thần Việt sang Trung Hoa công cán có thể làm thơ, đối câu đối, bút đàm đối đáp giỏi tới mức quan lại triều đình phương Bắc phải nể phục. Có những người từng được gọi là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”.

Tổ tiên ta còn nghĩ ra những cách sử dụng từ Hán–Việt để giúp mọi người học chữ Hán được thuận tiện, nhanh chóng hơn. Ví dụ nhà nho Đoàn Trung Còn làm bài vè Tam thiên tự (Ba nghìn chữ) – các bạn đã học từ lớp Hai, sách Cánh Buồm: Thiên trời, Địa đất/ Cử cất, Tồn còn/ Tử con, Tôn cháu/ Lục sáu, Tam ba/ Gia nhà, Quốc nước… (天 thiên nghĩa là trời, 地 địa nghĩa là đất…, 家 gia là nhà, 國 quốc là nước). Bài này có vần điệu nên rất dễ học truyền khẩu, đến trẻ con nông thôn cũng thuộc lầu lầu, nhờ thế giúp mọi người học 3.000 chữ nho dễ dàng hơn.

Từ rất sớm, dân tộc ta đã dùng chữ Hán để thể hiện ý chí độc lập. Không có chữ viết thì không có thể có những áng văn bất hủ như bài thơ Nam quốc sơn hà (南國山河, Sông núi nước Nam), mở đầu bằng câu Nam quốc sơn hà Nam đế cư âm vang hào hùng, được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. Hoặc như Hịch tướng sĩ tức bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn (諭諸裨將檄文) của Hưng Đạo Vương viết năm 1284 kêu gọi tướng sĩ ta chiến đấu chống quân Nguyên xâm lược. Hoặc Bình Ngô đại cáo (平吳大誥) do Nguyễn Trãi viết (1427) thay lời Bình Định Vương Lê Lợi tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống giặc Minh.

Cũng nhờ có chữ viết mà tổ tiên ta ghi chép được các văn bản về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển ở biển Đông. Những tác phẩm chữ Hán như trên đã để lại cho hậu thế một di sản vô giá có ý nghĩa tinh thần, chính trị.

Đặc biệt, chữ Hán đọc theo âm Việt đã làm nên nền văn học chữ Hán của Việt Nam. Nền văn học này chỉ nở rộ sau khi nước ta thoát khỏi ách thống trị của phong kiến Trung Quốc. Đáng kể nhất là thơ chữ Hán do người Việt sáng tác suốt mấy nghìn năm qua, tuy có khối lượng nhiều nhưng toàn bộ tác phẩm viết trong và trước thời kỳ Bắc thuộc đều bị nhà cầm quyền người Trung Quốc tiêu hủy hết; chỉ từ thời nhà Lý (1010–1225) trở đi mới chính thức được ghi chép và để lại cho hậu thế. Nổi bật có: Việt âm thi tập, tuyển tập thơ đầu tiên ở nước ta; Tân Việt âm thi tập, in năm 1459; Tinh tuyển chư gia luật thi; Toàn Việt thi lục do Lê Quý Đôn biên soạn, gồm 2391 bài thơ của 175 tác giả, từ thời nhà Lý đến đời vua Lê Tương Dực (1510–1516) thuộc thời Lê sơ; Hoàng Việt thi tuyển viết xong năm 1788 khắc vào bản gỗ, in năm 1825; Thơ Thiền và kệ của các thiền sư–cao tăng và vua quan các thời Lý, Trần, Hồ, Lê, Lê–Trịnh, thời Tây Sơn và thời Nguyễn.

Khi đặt âm Việt cho chữ Hán, tổ tiên ta chủ yếu dựa vào cách phát âm chữ Hán của người Việt (越 hoặc 粤) ở Quảng Đông. Bằng chứng là chữ “học tập”, người Bắc Kinh (và phương Bắc Trung Quốc nói chung) đọc là “xuế xí”, còn người Quảng Đông thì đọc là “học chập”. Cách ta đọc các chữ số từ 1 đến 10 cũng rất giống tiếng Quảng Đông (nhất, nhì,… sập). Có thể đó là do phần lớn các quan cai trị nước ta đầu tiên là người miền Nam Trung Quốc. Như Triệu Đà, vị vua thứ nhất của nước Nam Việt (khoảng năm 207–136 tr. CN), xưng là Nam Việt Vũ Vương hay Nam Việt Vũ Đế, có tổ tiên gốc tỉnh Hà Bắc nhưng di cư xuống Quảng Đông từ lâu. Trong lịch sử, hầu hết người Hoa chạy loạn vào Việt Nam là người Quảng Đông, điều đó không thể không ảnh hưởng tới cách đọc chữ Hán của người Việt. Ngoài ra, theo Nguyễn Tài Cẩn, tiếng Việt còn giữ được nhiều cách đọc chữ Hán của người Hoa thời rất cổ, như tươi (tiên, 鲜), lười (lãn, 懒), ngồi (ngọa, 卧), v.v…

[Phương Tây và UNESCO coi tiếng Quảng Đông là một ngôn ngữ độc lập, hiện được 100 triệu người dùng, là ngôn ngữ lớn thứ ba ở Canada và Mỹ, thứ tư ở Australia. Trung Quốc coi tiếng Quảng Đông là một trong bảy phương ngữ nước họ, vốn là Hán ngữ ở miền Trung lan truyền xuống miền Nam Trung Quốc, kết hợp với Bách Việt ngữ 百越语 hoặc Việt ngữ cổ (古越语) ở vùng này mà sinh ra.]

Bộ từ Hán–Việt có một thành công rất lớn là âm Việt của mỗi chữ Hán được chọn sao cho vừa gần sát với âm Hán, lại vừa hợp với cách phát âm của người Việt. Đặc biệt thơ chữ Hán, nhất là thơ luật Đường, khi đọc bằng âm Hán–Việt nghe rất êm tai.

Mời bạn thử đọc bài thơ Lương Châu từ (Bài từ làm ở Lương Châu, của Vương Hàn đời Đường):

Bồ đào mỹ tửu, dạ quang bôi

Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi

Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?

[Dịch ý: Rượu nho ngon đựng trong chén dạ quang (chén ban đêm phát sáng) / Đang muốn uống thì tiếng đàn tỳ bà đã vang lên giục ra trận ngay / (Nếu tôi) có vì say rượu mà nằm lại chốn sa trường thì xin bạn chớ cười/ Xưa nay ra trận có mấy người trở về?]

Đọc những câu thơ đó lên, chắc chắn bạn thấy âm điệu cực kỳ êm tai, luật bằng trắc được tuân theo nghiêm chỉnh, ai nghe một lần đều khó quên. 

Hoặc bốn câu đầu bài Thạch Hào Lại (Viên quan lại ở xóm Thạch Hào, thơ của Đỗ Phủ đời Đường):

Mộ đầu Thạch Hào thôn

Hữu lại dạ tróc nhân

Lão ông du tường tẩu

Lão phụ xuất môn khan

tả cảnh ban đêm lý trưởng bắt lính, bắt phu ở một xóm nhỏ [Dịch ý: Chiều tối vào thăm xóm Thạch Hào/ Có viên quan lại đang bắt người vào ban đêm. Ông lão trèo tường đi trốn. Bà già ra cổng ngó xem…]

Sau này, ngay cả khi chữ Nôm và chữ quốc ngữ xuất hiện, người Việt Nam vẫn làm thơ chữ Hán. Ngay trong nhà tù Côn Đảo thời hiện đại, các chí sĩ cách mạng Đông Kinh nghĩa thục cũng thường họa thơ chữ Hán với nhau.

Theo một thống kê, về văn xuôi chữ Hán đã có 37 tác phẩm được công bố, xưa nhất là Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên (1329) và mới nhất là Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu xuất bản ở Trung Quốc (khoảng 1921–1925). Đặc biệt Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (khoảng 1546), được người xưa ca tụng là “thiên cổ kỳ bút”. Đầu thế kỷ 20, một số tờ báo chữ quốc ngữ vẫn có kèm bản chữ Hán, như Đăng cổ tùng báo. Những năm 30, Phan Khôi vẫn còn viết tiểu thuyết bằng chữ Hán. Rất đáng kể là Phan Bội Châu, nhà cách mạng nổi tiếng với các tác phẩm tiêu biểu: Việt Nam vong quốc sử, Ái quốc ca, Ngục trung thư. Cuốn sách tố cáo tội ác của thực dân Pháp Thiên hồ! Đế hồ! (Trời ơi! Chúa ơi!) in tại Thượng Hải năm 1923, từng được học giả nổi tiếng Trung Quốc Hồ Thích viết lời tựa. Hải ngoại huyết thư (1906) là cả một thiên hùng văn kiệt tác gửi từ Trung Quốc về Việt Nam kêu gọi đồng bào ta đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp cai trị, được Lê Đại chuyển ngữ thành 738 câu thơ song thất lục bát chữ Nôm và Quốc ngữ, được truyền khẩu trong đồng bào cả nước, đã khiến thực dân Pháp hết sức hoảng sợ.

Đáng kể nữa còn có Đại Việt sử ký toàn thư (大越史記全書), là bộ sử Việt Nam viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, theo thể biên niên, ghi chép lịch sử từ năm 2879 tr. CN đến năm 1675 (nhà Hậu Lê), được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu năm 1697. Đây là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn. Hoàng Lê nhất thống chí (皇黎一統志), cuốn tiểu thuyết lịch sử của Ngô gia văn phái, ghi chép sự thống nhất đất nước của vương triều nhà Lê, có giá trị cả về mặt văn học và sử học, cũng viết bằng chữ Hán.

Từ Hán–Việt có tác dụng cực kỳ quan trọng trong phát triển tiếng Việt, làm cho nguồn từ tiếng Việt trở nên phong phú như ngày nay. Khoảng 60% từ Việt hiện dùng có nguồn gốc Hán ngữ; tất cả đều là từ Hán–Việt. Nói cách khác, từ Hán–Việt đã làm cho kho từ ngữ tiếng Việt tăng thêm ít nhất 200%. Các từ Hán–Việt làm cho tiếng Việt trở nên phong phú, uyển chuyển, có âm điệu tao nhã, bớt đi chất dân dã; nhiều ý được diễn tả một cách cô đọng và ngắn gọn hơn.

Ví dụ từ Việt chạng vạng tối nay có thêm từ đồng nghĩa hoàng hôn; từ đàn bà có thêm từ phụ nữ (ta hiện dùng Hội phụ nữ chứ không dùng Hội đàn bà); ta dùng độc lập, tự do, hạnh phúc chứ không dùng đứng một mình, thoải mái, sung sướng, v.v…

Trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, nguồn từ Hán–Việt giúp ta những thuật ngữ chính xác và tiện dụng. Ví dụ sinh học, vi sinh vật, bức xạ, tàn dư, vũ trụ,…

Ngoài ra, dựa trên gốc từ Hán–Việt, người Việt đã sáng tạo thêm nhiều từ mới hoặc thêm nghĩa Việt cho từ Hán ngữ. Ví dụ các từ tồn kho, phổ biến (với nghĩa làm cho nhiều người biết), vi tính, chung cư, phản biện,… tuy có một phần gốc chữ Hán nhưng nghĩa khác đi, hoặc tiếng Hán không có những từ đó.

Từ Hán–Việt đã làm giàu ngôn ngữ văn học Việt Nam. Ví dụ mấy câu thơ chữ Nôm của Bà Huyện Thanh Quan: Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt/Nước còn cau mặt với tang thương (bài Thăng Long thành hoài cổ), hoặc Gác mái, ngư ông về viễn phố/ Gõ sừng, mục tử lại cô thôn (bài Chiều hôm nhớ nhà), nếu không dùng các từ Hán–Việt tuế nguyệt (năm tháng), tang thương (sự thay đổi cuộc đời), ngư ông (người đánh cá), viễn phố (bến xa), mục tử (trẻ chăn trâu), cô thôn (xóm vắng) thì câu thơ không thể có nội dung và âm điệu hay đến thế được.

PHẦN IV – CHỮ NÔM

Một cống hiến cực kỳ quan trọng của tổ tiên chúng ta, đó là dựa trên nền tảng từ Hán–Việt, các vị đã tạo ra chữ Nôm – loại chữ đầu tiên dùng để ghi âm tiếng Việt.

Điều gì thúc đẩy việc tạo ra chữ Nôm? Nguyên nhân chính là do sức biểu đạt của chữ Hán–Việt đã không còn đủ sức ghi lại vô số từ được nảy sinh trong cuộc sống càng ngày càng phát triển. Cách ghi bằng chữ Hán và phát âm bằng tiếng Việt đã bộc lộ vô số nhược điểm mà chúng ta sẽ xem xét ngay đây.

Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta xóa bỏ công lao của cha ông đã nghĩ ra cách ghi và đọc từ Hán–Việt. Việc đặt ra bộ từ Hán–Việt để đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, đã hoàn thành sứ mạng lịch sử vĩ đại giúp dân tộc ta tiếp thu văn minh Trung Quốc mà vẫn giữ được bản sắc của mình mà không bị đồng hóa, đồng thời tiếp tục phát triển nền văn minh của mình trên mọi lĩnh vực, giúp dân tộc ta có đủ sức mạnh văn hóa để hạn chế ảnh hưởng của phương Bắc. Nếu không lập ra bộ từ Hán–Việt thì dân ta buộc phải đọc chữ Hán theo cách đọc của người Hán; như vậy sau 10 thế kỷ bị đô hộ, dân Việt sẽ bị Hán hóa, trở thành một tộc ít người của Trung Quốc, không giữ được tiếng nói và nền văn hóa riêng của mình, đất nước ta sẽ mãi mãi mất độc lập, còn đâu tổ quốc Việt Nam.

Thế nhưng, chúng ta vẫn cứ phải xem xét cách ghi tiếng Việt bằng chữ Hán dưới góc độ ngôn ngữ học.

Bộ từ Hán–Việt thiếu rất nhiều chữ. Tuy rằng tổng số âm Hán–Việt dùng để đọc chữ Hán đã nhiều gấp vài lần tổng số âm tiết trong tiếng Hán phổ thông, nhưng vẫn chỉ bằng một phần rất nhỏ so với tổng số âm tiết của tiếng Việt. Vì thế chữ Hán–Việt không thể nào ghi được hết âm của tiếng Việt. Đây là nhược điểm căn bản khiến cho chữ Hán dù đã được đọc bằng âm Việt nhưng cũng chủ yếu chỉ dùng trong văn viết (bút ngữ) chứ không dùng trong văn nói, và nhất là có cách hành văn theo lối văn ngôn cực kỳ khó hiểu. Vả lại chữ nho là chữ Hán cổ, loại chữ rất khó học, không thể phổ cập trong dân ta. Rõ ràng việc dùng chữ Hán đã hạn chế sự phát triển của ngôn ngữ Việt.

Thống kê theo Từ điển Hán–Việt của Thiều Chửu, cả thảy chỉ có khoảng 1.840 âm Hán–Việt. Trong khi đó âm thuần Việt cực kỳ phong phú, có tới vài chục nghìn âm (có tài liệu nói là 100.000 âm); Từ điển chữ Nôm diễn giải của GS. Nguyễn Quang Hồng có tới 7.888 hình chữ Nôm, mà vẫn còn thiếu rất nhiều âm.

Có thể kết luận: không thể dùng từ Hán–Việt để ghi âm tiếng Việt.

[Nguyễn Trường Tộ (1830–1871) là người đầu tiên nhận thấy nhược điểm đó, và đã kiến nghị nên lấy ngay chữ Hán để đọc âm theo nghĩa Việt mà không đọc theo âm Hán–Việt. Ví dụ viết 飲食 (ẩm thực) nhưng đọc là ăn uống. Nói theo cách đảo lại, từ ăn uống phải được viết bằng chữ Hán 飲食, và hai chữ này không đọc là ẩm thực nữa. Nghĩa là loại bỏ từ Hán–Việt. Đây dường như là phỏng theo cách dùng chữ Hán của người Nhật, – cách này đã dẫn đến hậu quả Nhật ngữ trở nên cực kỳ phức tạp, khó phổ cập, khó Latin hóa, khó số hóa chữ viết sau này. Rất may là kiến nghị nói trên đã không được thực hiện.]

Nhằm bù đắp thiếu sót ấy của từ Hán–Việt, tổ tiên ta đã sáng tạo ra chữ Nôm. Như phần trên đã nói, từ Hán–Việt – tức chữ Hán đọc theo âm Việt, dân ta quen gọi là chữ nho – chỉ có thể ghi âm được vài phần trăm các từ tiếng Việt, còn lại rất nhiều từ khác đều không thể ghi âm được. Điều này trước hết gây khó khăn trong việc soạn thảo các văn bản hành chính như địa bạ, đinh bạ, phán quyết tư pháp, v.v… có nhiều chỗ phải ghi tên người, tên đất, – ví dụ bà Lượt, ông Bẩy, làng Bưởi, xóm Cói, v.v…, – khi ấy người ta mới thấy nổi lên một vấn đề  là không kiếm được chữ nho (từ Hán–Việt) nào thể hiện được những âm thuần Việt như lượt, bẩy, bưởi, cói… Rõ ràng, nước ta cần có một loại chữ ghi âm được các từ tiếng Việt không có trong âm đọc chữ nho. Tạo ra một loại chữ mới là điều rất khó; cách thuận tiện nhất để tạo ra loại chữ mới là sử dụng hệ chữ viết chính thức của nước ta – chữ Hán, một loại chữ vuông mà người Việt thời đó đã biết. Dựa trên cơ sở chữ Hán và từ Hán–Việt, tổ tiên ta đã làm ra một hệ thống chữ vuông kiểu mới được gọi là chữ Nôm. 

Giống như chữ nho, hệ thống văn tự chữ Nôm cũng dùng chữ Hán để viết và đọc theo giọng Việt, nhưng sáng tạo thêm nhiều chữ vuông mới khác hẳn chữ Hán và có âm đọc tiếng Việt phong phú hơn nhiều, thể hiện được lời ăn tiếng nói của người bình dân nước Việt, chứ không như chữ nho chỉ là thứ văn tự của tầng lớp tinh hoa và chỉ dùng để viết (không dùng để ghi tiếng nói). 

Tổ tiên ta đã tạo được hai loại chữ Nôm. Chữ nôm có cách ghi là 喃, được ghép bởi chữ 口 KHẨU (nghĩa là cái miệng) với chữ 南 NAM, vì thế tên gọi “chữ Nôm” được hiểu với ý nghĩa là chữ viết theo âm nói (miệng) của người (Việt) Nam. Tên gọi chữ Nôm có ý nghĩa như thế.

Loại thứ nhất là chữ Nôm mượn Hán, tức mượn nguyên xi chữ Hán để tạo ra chữ Nôm (mượn âm, mượn nghĩa, hoặc mượn cả âm lẫn nghĩa); cách tạo chữ này tương đối đơn giản, không có gì sáng tạo. 

Loại thứ hai là chữ Nôm tự tạo, tức mượn phương thức hình thành chữ Hán để tạo ra chữ Nôm có dạng mặt chữ khác hẳn chữ Hán; đây là một sáng tạo của người Việt thời xưa. GS. Nguyễn Quang Hồng cho rằng có năm kiểu loại chữ Nôm mượn Hán và tám kiểu loại chữ Nôm tự tạo. 

Chữ Nôm mượn Hán chủ yếu được làm ra theo mấy cách tạo chữ dưới đây:

1– Mượn cả âm lẫn nghĩa: mượn từ Hán–Việt đồng âm đồng nghĩa với từ Việt để tạo ra chữ Nôm cùng âm, cùng nghĩa. Ví dụ: mượn từ 音 ÂM (trong âm thanh) để làm ra chữ Nôm âm (cùng nghĩa, cùng âm); mượn từ 安 AN (trong an toàn) để làm ra chữ an. Đây là cách tạo chữ Nôm dễ nhất, nhưng số chữ rất ít vì số âm Hán–Việt không nhiều (không quá 2.000 âm) mà từ Hán–Việt đồng âm đồng nghĩa lại càng ít.

2– Chỉ mượn âm: mượn từ Hán–Việt đồng âm khác nghĩa với từ Việt để tạo ra chữ Nôm có âm như từ Hán–Việt nhưng khác nghĩa. Ví dụ: mượn từ 舌 THIỆT (cái lưỡi) để làm ra chữ Nôm thiệt (trong thiệt hại) ; mượn từ 沒 MỘT (nghĩa là chìm) để tạo chữ Nôm một (một, hai). Lượng chữ Nôm mượn âm cũng rất ít bởi lẽ lượng âm Hán–Việt vốn rất ít.

3– Chỉ mượn nghĩa: mượn từ Hán–Việt khác âm nhưng đồng nghĩa với từ Việt để tạo ra chữ Nôm cùng nghĩa nhưng đọc âm khác hẳn. Ví dụ: mượn từ 近 CẬN (gần) để tạo ra chữ Nôm gần; mượn từ 腋 DỊCH (nghĩa là nách) để tạo chữ Nôm nách.

4– Mượn nghĩa nhưng đọc âm trệch đi: mượn từ Hán–Việt âm hơi giống nhau nhưng cùng nghĩa với từ thuần Việt để tạo ra chữ Nôm có âm đọc gần giống. Ví dụ: mượn từ 車 XA (phương tiện vận chuyển có bánh lăn) để làm ra chữ Nôm xe (xe cộ); mượn từ 店 ĐIẾM (trong thương điếm, tức cửa hiệu) để làm ra chữ Nôm đêm (đêm ngày).

Chữ Nôm tự tạo chia ra chữ đơn và chữ ghép, và trong chữ ghép tự tạo lại chia ra nhiều kiểu loại khác nhau, dựa theo sự kết hợp giữa các thành tố biểu âm và biểu ý trong chữ. Càng về sau, chữ Nôm tự tạo càng phát triển theo hướng biểu âm, nhằm ghi chép tiếng Việt ngày một sát hơn, đúng hơn. Chữ Nôm tự tạo có nhiều cách tạo chữ, ở đây ta chỉ xét vài cách chính:

1– Chữ ghép: Dùng hai hoặc hơn hai chữ Hán–Việt ghép với nhau theo kiểu ghép dọc (trên, dưới) hoặc ghép ngang, tạo ra chữ Nôm mới. Như ghép chữ 百 BÁCH (một trăm, 100) với chữ 林 LÂM (rừng), được chữ Nôm 𤾓 trăm. Hoặc ghép một bộ thủ với một chữ Hán, ví dụ: ghép bộ “xước” với chữ 十 THẬP (nghĩa là 10) được chữ Nôm 辻 mười, mươi.

2– Chữ đơn: thêm hoặc bớt hoặc thay đổi các nét của chữ đơn đã có để thành một chữ Nôm mới. Ví dụ: chữ Hán–Việt 爲 (có một nghĩa là làm, như trong hành vi) đem bỏ bớt 8 nét ở dưới, được chữ Nôm làm 爫 (trong làm lụng).

Phần lớn chữ Nôm tự tạo đều dùng cách ghép chữ mà thành, loại chữ đơn chiếm số lượng rất ít.

Cần nhấn mạnh: chữ Nôm không phải do một người hoặc một nhóm người nào làm ra ở một thời điểm nào đó trong lịch sử nước ta, mà nó là một hệ thống văn tự mở, được nhiều thế hệ người Việt xây dựng và hoàn thiện dần trong quá trình nhiều thế kỷ thực hành chức năng ngôn ngữ của chữ Nôm. 

Chữ Nôm khác chữ Hán không chỉ về cách dùng. Chữ Nôm tự tạo có dạng mặt chữ khác hẳn chữ Hán. Người Trung Quốc không thể đọc hiểu chữ Nôm  của Việt Nam như họ có thể đọc hiểu chữ Kanzi (Hán tự) trong văn tự Nhật.

Chữ Nôm là biểu hiện sinh động tinh thần độc lập sáng tạo của người Việt trong việc sử dụng chữ Hán cho nước mình.

Vấn đề văn bản chữ Nôm sớm nhất ra đời khi nào vẫn đang được tranh cãi? 

Có ý kiến cho rằng văn bản chữ Nôm sớm nhất được phát hiện là bài văn khắc trên quả chuông Vân Bản có niên đại Bính Thìn (1076, đời Lý Nhân Tông) vớt được từ dưới biển Đồ Sơn năm 1958, có khắc hai chữ Ông Hà 翁何. Nhưng GS. Nguyễn Quang Hồng lại cho rằng tấm bia Báo Ân thiền tự bi ký ở chùa Tháp Miếu (Yên Lãng, Vĩnh Phú) có niên đại năm 1210 (đời Lý Cao Tông) mới được coi là chứng tích xưa nhất của chữ Nôm còn lưu lại đến nay. Ông cũng cho rằng bản dịch ra chữ Nôm tác phẩm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, thực hiện khoảng giữa hoặc đầu thế kỷ 12 (nhà Lý) là di tích chứng minh sự hình thành chữ Nôm như một hệ thống văn tự thực thụ. Hệ thống này chỉ trở thành một thứ văn tự khá hoàn chỉnh, bắt đầu được dùng để sáng tác văn học từ thời nhà Trần (thế kỷ 13). 

Chữ Nôm ra đời và phát triển trong hoàn cảnh không thuận lợi. Giới nhà nho nước ta luôn luôn tôn sùng chữ Hán là “chữ thánh hiền”, gọi chữ Nôm là nôm na mách qué, tức loại văn tự của giới bình dân, có tính chất mộc mạc, thiếu tao nhã, đến mức bị coi thường. Các nhà nước phong kiến, trừ nhà Hồ và nhà Tây Sơn, đều chưa bao giờ coi chữ Nôm là văn tự chính thức của nước ta. Thậm chí năm 1662 vua Huyền Tông triều Hậu Lê còn hạ chiếu cấm dùng chữ Nôm, và đốt hủy nhiều sách chữ Nôm. Hồ Quý Ly là vị vua đầu tiên phổ biến rộng rãi việc dùng chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên vị trí quan trọng, gọi là Quốc âm, thể hiện ý chí nêu cao tinh thần dân tộc của ông. Nhà vua tự tay soạn sách Thi nghĩa (Nghĩa lý của Kinh Thi) bằng chữ Quốc âm rồi sai người dạy cho hậu phi và cung nhân học tập. Ông còn chép thiên Vô dật (Không nên nhàn hạ) ra chữ Quốc âm để dạy vua Trần Thuận Tông. Có người cho rằng việc chú trọng chữ Nôm của Hồ Quý Ly trong hệ thống giáo dục đương thời có tác động đến thành tựu văn học chữ Nôm của những người kế tục, điển hình là Nguyễn Trãi. 

Vua Quang Trung (1752–1792) lấy chữ Nôm làm quốc ngữ, tức chữ Nôm được coi là văn tự chính thức của quốc gia. Triều đình quy định: trong các kỳ thi hương, sĩ tử phải làm thơ phú bằng chữ Nôm. Năm 1792 nhà vua lập Sùng chính thư viện ở Nghệ An để tổ chức dịch ra chữ Nôm một số sách chữ Hán như Kinh Dịch, v.v…

Chữ Nôm đã được sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực xã hội khác nhau, như văn hóa dân gian, tôn giáo tín ngưỡng, khoa học và giáo dục, hành chính, văn học nghệ thuật. Loại chữ viết mới này đạt được thành tựu lớn nhất trong lĩnh vực văn học.

Trước đây nước ta chỉ có văn học chữ Hán, hoàn toàn như văn học của người Hán, không thể hiện được vẻ đẹp và sự phong phú của ngôn ngữ Việt Nam. Sau khi chữ Nôm ra đời, nước ta mới có nền văn học thực sự của mình, một nền văn học tiếng Việt rực rỡ kéo dài mấy thế kỷ với sự ra đời nhiều tác phẩm chữ Nôm. 

Các sáng tác văn học bằng chữ Nôm bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 13 (thời nhà Trần), tạo tiền đề vững chắc cho sự nở rộ thể loại văn học chữ Nôm các thế kỷ tiếp theo. Hiện còn lưu giữ được một số tác phẩm chữ Nôm ở thời kỳ này, như trong sách Thiền tông bản hạnh có bốn bài phú: Cư trần lạc đạo phú (Ở trong cõi trần mà vui với đạo) và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca (Bài ca được thú lâm tuyền thành đạo) của Trần Nhân Tông (1258–1308); Vịnh Vân Yên tự phú (Bài phú vịnh chùa Vân Yên) của Lý Đạo Tái (1254–1334) và Giáo tử phú (Bài phú dạy con niệm Phật) của Mạc Đĩnh Chi (1280–1346).

Thế kỷ 13, Hàn Thuyên (1229–?) dùng chữ Nôm sáng tác bài Văn tế cá sấu, ông cũng là người đầu tiên dùng luật thơ Đường vào thơ Nôm (nên đời sau gọi là thơ Hàn luật). 

Thế kỷ 15 có tác phẩm bất hủ Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ của Nguyễn Trãi (1380–1442). Thế kỷ 16 có Bạch Vân Am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585). 

Thế kỷ 17 có các tác phẩm theo dạng sử thi như Thiên Nam minhgiám m(Gương sáng trời Nam), vốn là tác phẩm chữ Hán của Nguyễn Thạch Giang, được tác giả tự dịch ra chữ Nôm, gồm 938 câu thơ song thất lục bát. Thiên Nam ngữ lục, tập diễn ca lịch sử Việt Nam (khuyết danh), gồm 8.136 câu thơ lục bát thuần thục. Tác phẩm thơ Nôm đáng kể có bài Cảm tác của Nguyễn Hy Quang (1634–1692) thuộc họ Nguyễn Đông Tác. 

Thế kỷ 18, Đoàn Thị Điểm (1705–1748) dịch ra chữ Nôm tác phẩm văn vần chữ Hán Chinh phụ ngâm khúc 征婦吟曲 của Đặng Trần Côn – bản diễn Nôm tài tình theo thể thơ song thất lục bát này đã đưa bà lên đỉnh cao văn học. Nguyễn Gia Thiều (1741–1798) sáng tác Cung oán ngâm khúc. Tiếp đó đại thi hào Nguyễn Du (1765–1820) hoàn thành tập truyện thơ chữ Nôm Truyện Kiều gồm 3.254 câu thơ lục bát, được coi là tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam. Cùng thời đó còn có những bài thơ Nôm thất ngôn bát cú nổi tiếng của Hồ Xuân Hương  (1772–1822), người được gọi là Bà Chúa thơ Nôm.

Thế kỷ 19 có Bà Huyện Thanh Quan (1805–1848) dùng chữ Nôm viết những bài thơ hoài cổ trữ tình với lời thơ gọt rũa điêu luyện, đẹp như bức tranh thủy mặc. Tại miền Nam Việt Nam xuất hiện Nguyễn Đình Chiểu (1822–1888) với tác phẩm chính là Lục Vân Tiên – tập truyện thơ Nôm gồm 2.082 câu lục bát. 

Ngoài ra, chữ Nôm cũng được sử dụng trong các văn bản hành chính của triều đình vua Quang Trung và vua Gia Long, trong kinh sách nhà Phật, trong hương ước, v.v…

PHẦN V – SỐ PHẬN CHỮ HÁN VÀ CHỮ NÔM TẠI VIỆT NAM

1. Ưu điểm, nhược điểm, số phận của chữ Hán

Chữ Hán viết bằng các nét trong một ô vuông, cho nên gọi là chữ vuông. 

Chữ Hán thuộc loại chữ độc đáo và phức tạp nhất, khó học nhất trên thế giới. 

Trước hết, học chữ nào thì chỉ biết chữ ấy (biết đọc và biết nghĩa) mà thôi. 

Thứ hai, tổng số chữ Hán rất nhiều và tăng lên theo thời gian, rất khó nhớ được mặt chữ. 

[Thời Ân–Thương có khoảng 2.000 chữ; cuối thời Tần–Hán có 9.353 chữ; thời nhà Thanh có khoảng 60.000 chữ, thường dùng 4.500 chữ. Thống kê mới nhất cho biết toàn bộ kho chữ Hán có hơn 90.000 chữ. Sự gia tăng số chữ rất vô lý, như có chữ chỉ là tên một địa phương, một con sông, ngọn núi hoặc tên một dòng họ, có khi chẳng bao giờ dùng đến. Riêng bộ “thủ” (nghĩa là “cái đầu”) đã có 189 ứng dụng tạo thành những chữ khác nhau. Khả năng nhớ của óc người không thể nào nhớ được nhiều chữ như vậy.]

Thứ ba, có rất nhiều chữ đồng âm khác nghĩa, tức âm đọc như nhau nhưng mặt chữ khác nhau và nghĩa càng khác nhau (ví dụ âm zuén có ít nhất 24 chữ 元, 原, 嫄, 沅, 源, 羱, 芫, 螈,黿,… ; âm yi cả bốn thanh điệu có ít nhất 147 chữ), khi nghe đọc rất dễ viết nhầm chữ. 

Thứ tư, có rất nhiều chữ đa nghĩa, thậm chí nghĩa khác xa nhau. Đó thường là những chữ được cấu tạo theo cách giả tá, tức mượn hình chữ cũ để biểu thị nghĩa mới. Khi đọc chữ đa nghĩa sẽ rất khó hiểu ý tác giả, dễ xảy ra hiểu nhầm tranh cãi khi đọc các văn bản cổ. Nhược điểm này của chữ Hán sau này cũng sẽ ảnh hưởng tới tính chính xác của chữ Nôm Việt Nam. 

Thứ năm, số nét trong một chữ rất nhiều, có thể hơn 20 nét; có người thậm chí tìm thấy duy nhất có một chữ Hán 58 nét, đọc là “pi–áng” – tên một loại mỳ sợi đặc sản của tỉnh Thiểm Tây, do có quá nhiều nét mà không từ điển nào in được).

Năm 1952, Bộ Giáo dục Trung Quốc công bố bảng kê 2.000 chữ Hán thường dùng, nhằm quy định số lượng tối thiểu chữ Hán mà một người biết chữ cần biết đọc và viết. Bình quân mỗi chữ trong bảng này có 11–12 nét, 221 chữ có trên 17 nét. Ngoài ra, sự tổ hợp nét của chữ Hán không tuân theo quy luật cố định. 

Chữ nhiều nét thì không thể viết nhanh và viết nhỏ được, vì các nét quá gần nhau, nhất là thời xưa in chữ bằng bản khắc gỗ. Đọc chữ nhiều nét rất hại mắt. 

Có thể thấy ngay là chỉ những ai giàu có mới đủ điều kiện học “chữ thánh hiền”, và cũng chỉ những người “tài giỏi” mới biết loại chữ này, còn hầu hết nhân dân đều không biết chữ. Đại văn hào Lỗ Tấn từng nói chữ vuông “là khối u trên con người thuộc tầng lớp đại chúng lao khổ Trung Quốc”, “là lợi khí của chính sách ngu dân”. 

Người Trung Quốc đã sớm nhận ra các mặt hạn chế, lạc hậu của chữ Hán. 

Từ thời xưa họ đã bắt đầu đơn giản hóa chữ Hán. Các năm 1913, 1949, 1955, chính quyền Trung Quốc đã tiến hành cải cách chữ Hán theo hướng ghi âm và giảm số chữ, giảm nét chữ. 

Năm 1956, Trung Quốc đại lục (vùng đất liền không kể Đài Loan) bắt đầu dùng phương án đơn giản hóa chữ Hán, theo đó 544 chữ đủ nét (chữ phồn thể) được đơn giản hóa thành 515 chữ bớt nét (chữ giản thể). Sau khi dùng thử và mở rộng, năm 1964 số chữ giản thể được tăng lên tới 2.238 đã đẩy nhanh tốc độ xóa mù chữ và công tác giáo dục, thông tin. Hiện nay Trung Quốc đại lục (và Singapore, nơi 70% là người Hoa) chỉ dùng chữ giản thể. Đài Loan, Hồng Kông vẫn dùng chữ phồn thể. 

Để thống nhất cách đọc chữ Hán, nhất thiết phải ghi âm tiếng Hán. Người đầu tiên có ý tưởng này là Matteo Ricci, một giáo sĩ người Ý truyền giáo tại Trung Quốc. Năm 1605, ông đề xuất phương án dùng chữ Latin ghi âm Hán ngữ, được nhiều học giả hoan nghênh. Từ đó trở đi Trung Quốc xuất hiện phong trào cải cách Hán ngữ theo hướng ghi âm chữ Hán. Trước năm 1946, đã có khoảng 30 phương án, đều dựa trên cơ sở phương án Matteo Ricci. 

Năm 1918, nhà nước Trung Hoa công bố phương án ghi âm chữ Hán bằng 37 chú âm phù hiệu, tức bằng các ký hiệu dùng làm chữ cái ghi âm. Chú âm phù hiệu ghi âm được toàn bộ chữ Hán, hiện vẫn dùng phổ biến ở Đài Loan. 

Năm 1958, Quốc hội Trung Quốc thông qua Phương án ghi âm Hán ngữ bằng chữ Latin. Sau một thời gian dùng thử và cải tiến, từ 1/11/1967 chính thức thực thi phương án này.

Như trên đã nói, chữ Hán cổ rất khó phổ cập, người Trung Quốc muốn học đủ số chữ Hán tối thiểu cũng mất vài năm; các nhà nho Việt Nam muốn thông thạo chữ Hán cổ cần thời gian cả chục năm, thậm chí “khi đọc thông viết thạo thì lưng đã còng, tay đã run”. Chữ Hán khó dùng được trong giao lưu quốc tế vì người nước ngoài rất ngại học loại chữ biểu ý. Khi dùng chữ Hán sẽ rất khó thực hiện tự động hóa công nghệ in ấn, truyền điện tín, lưu trữ điện tử loại chữ này, như khó làm được máy chữ, máy in chữ Hán. Ngày nay nhờ có máy tính điện tử nên chữ Hán đã được số hóa, đánh máy vi tính tiện hơn nhiều so với khi dùng máy chữ cơ khí. Nhưng bộ chữ Hán cần dung lượng bộ nhớ máy tính lớn bằng 284 lần bộ chữ tiếng Anh.

2. Ưu điểm, nhược điểm, số phận của chữ Nôm

Về phía chữ Nôm, tuy được dân chúng tán thưởng nhưng lại không phát triển được nhanh. Đó là do chữ Nôm rất khó học, còn khó hơn cả chữ Hán cổ.

Số người biết chữ Nôm hiện nay còn ít hơn cả số người biết chữ Hán. Có tài liệu nói trên cả thế giới hiện chỉ có khoảng 100 người biết chữ Nôm. 

Đó là do trước hết, muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Hán cổ, vốn là loại chữ rất khó học. Thứ hai, chữ Nôm có nhiều nét hơn, cấu tạo mặt chữ phức tạp hơn chữ Hán, vừa khó viết lại vừa dễ viết nhầm. Thứ ba, cấu tạo chữ Nôm không theo quy luật chặt chẽ, một chữ Nôm có thể đọc hoặc viết theo nhiều cách khác nhau, cho nên nói chung “chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán”. Ví dụ: một chữ CỐ có tới ba mặt chữ khác nhau là 固, 故, 雇; chữ THIÊNG có tới 10 mặt chữ khác nhau; một chữ 南 NAM có tới mấy cách đọc nam, năm, nằm; chữ 女 NỮ có thể đọc là nớ, nợ, nỡ, nữa. Thứ tư, tuy chữ Nôm đã có thành phần biểu âm nhưng vẫn rất khó đọc được âm của chữ. Vì vậy đọc các văn bản chữ Nôm rất khó, hay nhầm lẫn, có chữ không biết nên đọc thế nào, có chữ không biết nên giải nghĩa thế nào. 

Ví dụ câu thơ tám chữ trong Truyện Kiều: Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Chữ Nôm thứ ba viết 隊 ĐỘI, xưa nay các bản phiên âm Nôm sang Quốc ngữ đều phiên là đòi, nhưng học giả Hoàng Xuân Hãn lại nói chữ đó nên đọc là trọi. Hoặc sáu chữ của câu Êm đềm trướng rủ màn che, chữ Nôm thứ hai viết 念NIỆM, nhiều người phiên âm là đềm, nhưng học giả Trương Vĩnh Ký lại phiên là nềm, vì ở thời Nguyễn Du thì êm nềm đồng nghĩa với êm đềm. 

Hơn nữa, thời xưa kỹ thuật in còn lạc hậu (chủ yếu là khắc chữ trên tấm gỗ gọi là mộc bản, vừa khó vừa chậm) nên chưa có từ điển để tra chữ nhằm thống nhất cách viết cách đọc chữ Nôm, vì thế chữ Nôm không thể phổ cập trong đại chúng, chỉ một số nhà nho biết mà thôi. Ngoài ra, khó tránh khỏi việc “tam sao thất bản”, phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa chưa cao, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng thấp (chữ bị nhòe, mất nét).

Do những nhược điểm trên, chữ Nôm chưa thể hoàn thành được sứ mệnh ghi âm tiếng Việt và cuối cùng đã bị chữ quốc ngữ thay thế. Tuy vậy di sản ngót 800 năm của chữ Nôm vẫn được dân tộc ta trân trọng gìn giữ, vì đây là một di sản vô cùng quý giá, độc đáo, thể hiện bản lĩnh văn hoá dân tộc Việt Nam. Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm ở ta và Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm (VNPF, lập năm 1999 tại Mỹ) đang tích cực bảo tồn và khai thác di sản này.

Nguyễn Hải Hoành
Bài viết được trích ra từ sách mở Cánh Buồm, tuân thủ giấy phép mở CC-BY-NC-SA 4.0 (Creative Commons Attribution NonCommercial ShareAlike 4.0 International)

Share This Post!